Với những người yêu bóng đá thế giới, có lẽ mỗi khi nhắc đến cụm từ “Cơn lốc màu da cam”, trong trí óc của mỗi người sẽ nghĩ ngay đến đội tuyển Hà Lan, bởi sắc cam trên màu áo của họ. Nếu ngược dòng thời gian trở về quá khứ, thì Hà Lan thực sự là một thế lực mạnh không chỉ của bóng đá châu Âu mà còn của bóng đá thế giới. Nổi bật nhất trong số những cầu thủ thuộc thế hệ vàng của bóng đá Hà Lan, không ai khác chính là huyền thoại Johan Cruyff, người được mệnh danh là “Thánh Johan” bởi tài năng và sự xuất sắc của mình cả trên cương vị của một cầu thủ cũng như một huấn luyện viên. Hôm nay, hãy cùng với Bóng đá ON tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của “Thánh Johan” nhé!
Johan Cruyff, tên thật là Hendrik Johannes Cruyff, sinh ngày 25/04/1947 tại thủ đô Amsterdam của Hà Lan. Ngay từ khi còn nhỏ, Johan Cruyff được cha mình truyền cho ngọn lửa đam mê bóng đá và kể từ đó, ông thường xuyên có mặt trên những con đường ở Amsterdam để thi đấu cùng bạn bè đồng trang lứa. Trong những năm tháng lui tới sân chơi gần khu nhà mình, ông vô tình được vị huấn luyện viên đội trẻ Ajax khi ấy là Jany van der Veen để mắt và sau đó vị huấn luyện viên đã đề nghị một suất trong học viện trẻ với Cruyff mà không cần thông qua các thủ tục hành chính.
Năm 1959, Johan Cruyff nhận được tin người cha của mình đã qua đời do một con trụy tim, và ông đã tự hứa với lòng mình sẽ trở thành một vĩ nhân trong bóng đá để an ủi linh hồn người cha thân yêu. Ngày 15.12.1964, Johan Cruyff ra mắt đội một Ajax và ghi bàn thắng duy nhất trong trận thua 1-3 của đội nhà trước GVAV, nhưng phong độ thi đấu bết bát suốt phần còn lại của mùa giải đã khiến Ajax cán đích ở vị trí thứ 13 trên bảng xếp hạng.
Tuy nhiên, mùa giải 1965 – 1966 là một khởi đầu rất khác, Johan Cruyff chứng tỏ được khả năng và thi đấu bùng nổ khi ghi đến 25 bàn thắng trong 23 trận đấu, giúp Ajax vô địch giải quốc nội. Mùa giải tiếp theo đánh dấu một giai đoạn huy hoàng của riêng Cruyff và Ajax khi ông cùng đội bóng giành được cú đúp danh hiệu quốc nội và đồng thời đưa bóng đá Hà Lan vươn ra tầm châu lục. Mùa 1967 – 1968, cuộc chơi tại Eredivisie tiếp tục chứng kiến Ajax đăng quang ngôi vô địch với một nhân tố vô cùng đặc biệt trong đội hình – Johan Cruyff, người được bình chọn là cầu thủ xuất sắc nhất Hà Lan.
Khi nhắc về bóng đá Hà Lan, nhiều người sẽ nhớ ngay đến triết lý Bóng đá tổng lực (Totaalvoetbal), thứ bóng đá đã gắn liền với tên tuổi của huấn luyện viên Rinus Michels và giúp Ajax ngự trị châu Âu trong nhiều năm liền. Mùa giải 1970 – 1971, Ajax lên ngôi vô địch châu Âu khi đánh bại Sparta Rotterdam 2-1; mùa 1971 – 1972, Johan Cruyff giúp đội nhà bảo vệ chức vô địch European Cup (tiền thân của UEFA Champions League) khi ghi cả 2 bàn thắng trong trận chung kết gặp Milan và 1 năm sau đó, Ajax đả bại Juventus để hoàn thành kỷ lục 3 năm liền vô địch châu Âu trong sự thán phục của cả lục địa già.
Giữa năm 1973, Johan Cruyff trở thành cầu thủ đầu tiên giữ kỷ lục chuyển nhượng của giới bóng đá khi Barcelona đặt lên bàn đàm phán 2 triệu USD để thuyết phục Ajax nhả người và phần còn lại là lịch sử. Ngay từ mùa giải đầu tiên có Cruyff trong đội hình, Barcelona lập tức thể hiện sức mạnh phi thường và trận thắng 5-0 trước Real Madrid là ví dụ kinh điển nhất, những culé bắt đầu thay nhau truyền bá một đức tin: “Có Cruyff, chúng ta không bao giờ thua.”.
Trong 143 lần ra sân chơi cho Barcelona, Cruyff ghi 48 bàn thắng, giành về 1 cúp C1 châu Âu, 1 La Liga, 1 Cúp Nhà vua. Năm 1978, không lâu sau quyết định giải nghệ ở tuổi 31, Johan Cruyff cùng gia đình chuyển đến Mỹ để ông có thể tiếp tục thi đấu bởi vì lý do tài chính – ông đã mất hàng triệu đô vì làm ăn thua lỗ khi đầu tư vào trang trại nuôi lợn của mình. Tuy nhiên, trong cái rủi có cái may, Johan Cruyff đã kịp làm lại từ đầu và giống hệt như ông miêu tả: “From zero to hero”. Năm 1981, Cruyff quay trở về Hà Lan để tái ngộ Ajax rồi sau đó chuyển sang khoác áo Feyernoord năm 1983.
Khi Cruyff gặp lại Ajax trong mùa giải 1983 – 1984, đội bóng của ông đã để thua Ajax đến 2-8 và ông là người ghi cả 2 bàn thắng cho Feyernoord. Mặc cho thất bại thảm hại, Johan Cruyff đã tuyên bố một câu nói mà đến nay người ta vẫn còn trầm trồ vì bản lĩnh của ông: “Tốt thôi, dù sao đi nữa chúng ta vẫn sẽ vô địch”. Kể từ đó, Feyernoord của Johan Cruyff đã bất bại trong suốt 5 tháng trời và giành lấy chiếc cúp vô địch quốc nội cuối mùa giải.
Ở cấp độ quốc gia, Johan Cruyff là nhân tố không thể thiếu trong thành tích giành vị trí Á quân của đội tuyển Hà Lan tại World Cup 1974 khi ông dẫn dắt cả một tập thể bằng chiến thuật bóng đá tổng lực càn quét mọi đối thủ ra khỏi đường đi của cơn lốc. Tuy nhiên, số phận đã không ủng hộ Cruyff và những người đồng đội đến cùng khi Hà Lan thất bại trước Tây Đức ở trân chung kết. Bên cạnh đó, Cruyff đã tóm gọn màn trình diễn của mình bằng câu nói nổi tiếng: “Đá hay mà không thắng thì vô nghĩa, đá thắng mà không hay thì nhàm chán.”. Cũng chính tại kỳ World Cup 1974, Johan Cruyff đã có một pha xử lý kinh điển làm nên tên tuổi của “thánh Johan”.
Cụ thể, vào phút thứ 24 trong trận đấu giữa Hà Lan và Thụy Điển tại vòng bảng World Cup năm 1974, Cruyff đang có bóng nhưng đang ở tư thế quay lưng lại với khung thành đối phương và trước mặt ông là hậu vệ Jan Olsson, Cruyff giơ chân lên thực hiện một động tác vờ chuyền bóng, Jan Olsson tưởng Cruyff chuyền bóng thật nên theo phản xạ ông cũng giơ chân lên định cản phá nhưng bất ngờ Cruyff kéo quả bóng về hướng ngược lại rồi xoay hông 180 độ và bức tốc thoát đi. Pha xử lý hoàn mỹ đó về sau được người đời đặt tên theo chủ nhân của nó – “Cruyff Turn”.
Sau khi giã từ đội tuyển quốc gia năm 1978, Johan Cruyff đã bắt đầu ấp ủ dự định làm huấn luyện viên cho một câu lạc bộ và năm 1985, dự định đó được hiện thực hóa khi ông trở lại Ajax với cương vị mới. Dưới thời của Cruyff, ông đã chú trọng xây dựng lứa cầu thủ trẻ tài năng và kết quả của tầm nhìn đó là sự ra đời của một loạt các huyền thoại Hà Lan như: Marco van Basten, Frank Rijkaard và chức vô địch Champions League năm 1995 là lời tri ân sâu sắc cho những cống hiến của Johan Cruyff.
Tuy nhiên, thành công rực rỡ của Johan Cruyff đến khi ông tại vị ở Barcelona, nơi ông đã để lại những đóng góp có giá trị không thể tính toán được cho đến tận bây giờ. Ở Camp Nou, ông đã đem toàn bộ những kiến thức thâm sâu về chiến thuật tích lũy được từ thời còn là cầu thủ và áp dụng nó vào tập thể của Barcelona, nơi mà tiqui-taca lần đầu tiên được thế giới biết đến. Một trong những di sản tiêu biểu nhất dưới thời của Cruyff chính là Dream Team 1992, nơi mà những Michael Laudrup, Ronald Koeman, Pep Guardiola hay Hristo Stoichkov hội ngộ và cùng nhau chinh phục đỉnh cao châu Âu.
Ngoài là một huyền thoại bóng đá thế giới, Johan Cruyff còn là một người nghiện thuốc lá nặng, và điều này đã dẫn đến căn bệnh ung thư phổi quái ác của ông. Từ khi ông còn ở đội trẻ của Ajax, ông đã hút thuốc một cách công khai và không hề vụng trộm. Lần ra mắt Barcelona ở La Liga, ông hút trước và sau trận đấu, chỉ tạm rời điếu thuốc một chút khi đi tắm. Một trong những hình ảnh mang tính biểu tượng của Johan Cruyff là khi ông đang chìm trong làn khói trong phòng thay đồ của đội tuyển Hà Lan. Theo Cherif Ghemmour, một người viết tiểu sử Johan Cruyff cho biết, thánh Johan thường hút 2 gói thuốc mỗi ngày và hút khắp mọi nơi, khiến báo chí Hà Lan gọi ông là “đầu máy hơi nước” vì lúc nào cũng phun khói mù mịt.
Một trong những nguyên nhân khiến văn hóa thuốc là tràn lan những ngày ấy, là quan niệm sai lầm, rằng hút thuốc giúp… phổi tốt hơn, và nên được dùng để hỗ trợ thể thao. Có lẽ Johan Cruyff cũng tin như thế, khi trong thời gian dài nghiện thuốc, ông 9 lần vô địch Hà Lan, 1 lần vô địch Tây Ban Nha cùng 3 giải thưởng Quả bóng Vàng.
Khi dấn thân vào nghiệp huấn luyện, Cruyff còn hút nhiều hơn, khoảng 4 gói mỗi ngày. Với một công việc có quá nhiều áp lực và liên tục phải đưa ra các quyết định chính xác tức thì, ông cần tăng liều để giảm bớt căng thẳng. Và là HLV hút thuốc, ông đoạt thêm 2 chức vô địch quốc gia Hà Lan, 4 chức vô địch La Liga, 1 Cúp C1 châu Âu cùng giải thưởng huấn luyện viên xuất sắc nhất thế giới.
Nhưng rồi đến lúc mà Johan Cruyff phải dừng lại. Vào tháng 2/1991, tim ông thắt lại và phải trải qua cuộc phẫu thuật, mở đường dẫn phụ để cung cấp máu cho tim. Cruyff đã sống sót sau 4 giờ chiến đấu. Sau đó, theo lời khuyên của bác sỹ, chính thức từ bỏ thuốc lá. Thay vì điếu Camel, trên miệng ông giờ là chiếc kẹo mút Chupa Chups. Dẫu vậy, căn bệnh ung thư phổi quái ác đã cướp đi mạng sống của ông. “Thánh Johan” đã mãi mãi ra đi vào ngày 24/03/2016, hưởng thọ 68 tuổi. Dù ông đã rời xa thế giới được hơn 4 năm, nhưng những di sản mà “thánh Johan” để lại cho bóng đá thế giới vẫn còn nguyên vẹn và không hề phai mờ.